Bible

Transform

Your Worship Experience with Great Ease

Try RisenMedia.io Today!

Click Here

Numbers 1

:
Vietnamese - VIE2010
1 Ngày mồng một tháng hai năm thứ hai, sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, Đức Giê-hô-va phán với Môi-se Lều Hội Kiến trong hoang mạc Si-na-i rằng:
2 “Hãy kiểm tra dân số cả hội chúng Y-sơ-ra-ên theo từng bộ tộc gia tộc, liệt tất cả nam đinh
3 từ hai mươi tuổi trở lên, tức tất cả người Y-sơ-ra-ên thể ra trận được. Con A-rôn sẽ đếm họ theo từng đơn vị.
4 Mỗi bộ tộc phải một người sẽ giúp đỡ các con; người ấy phải trưởng tộc.
5 Đây danh sách những người sẽ giúp đỡ các con: Bộ tộc Ru-bên Ê-lít-su, con trai của Sê-đêu;
6 bộ tộc Si-mê-ôn Sê-lu-mi-ên, con trai của Xu-ri-ha-đai;
7 bộ tộc Giu-đa Na-ha-sôn, con trai của A-mi-na-đáp;
8 bộ tộc Y-sa-ca Na-tha-na-ên, con trai của Xu-a;
9 bộ tộc Sa-bu-lôn Ê-li-áp, con trai của Hê-lôn;
10 con cháu Giô-sép, tức bộ tộc Ép-ra-im, Ê-li-sa-ma con trai của A-mi-hút; bộ tộc Ma-na-se Ga-ma-li-ên, con trai của Phê-đát-su;
11 bộ tộc Bên-gia-min A-bi-đan, con trai của Ghi-đeo-ni;
12 bộ tộc Đan A-hi-ê-xe, con trai của A-mi-sa-đai;
13 bộ tộc A-se Pha-ghi-ên, con trai của Óc-ran;
14 bộ tộc Gát Ê-li-a-sáp, con trai của Đê-u-ên;
15 bộ tộc Nép-ta-li A-hi-ra con trai của Ê-nan.”
16 Đó những người được kêu gọi từ hội chúng vốn những người lãnh đạo các bộ tộc của ông cha họ những thủ lĩnh của các đơn vị Y-sơ-ra-ên.
17 Môi-se A-rôn tiếp nhận những người đã được chỉ định,
18 triệu tập cả hội chúng vào ngày mồng một tháng hai. Họ khai phả hệ từng người theo từng bộ tộc gia đình từ hai mươi tuổi trở lên.
19 Vậy Môi-se kiểm tra dân số tại hoang mạc Si-na-i như Đức Giê-hô-va đã phán dặn:
20 Con cháu Ru-bên trưởng nam của Y-sơ-ra-ên, tùy theo gia phả của họ, được ghi tên từng người theo từng bộ tộc gia đình, tức tất cả nam đinh từ hai mươi tuổi trở lên trong bộ tộc Ru-bên thể ra trận,
21 đếm được bốn mươi sáu nghìn năm trăm người.
22 Con cháu Si-mê-ôn, theo gia phả của họ, được ghi tên từng người theo từng bộ tộc gia đình, tức tất cả nam đinh từ hai mươi tuổi trở lên trong bộ tộc Si-mê-ôn thể ra trận,
23 đếm được năm mươi chín nghìn ba trăm người.
24 Con cháu Gát, tùy theo gia phả của họ, được ghi tên theo từng bộ tộc gia đình, tức tất cả nam đinh từ hai mươi tuổi trở lên trong bộ tộc Gát thể ra trận,
25 đếm được bốn mươi lăm nghìn sáu trăm năm mươi người.
26 Con cháu Giu-đa, tùy theo gia phả của họ, được ghi tên theo từng bộ tộc gia đình, tức tất cả nam đinh từ hai mươi tuổi trở lên trong bộ tộc Giu-đa thể ra trận,
27 đếm được bảy mươi bốn nghìn sáu trăm người.
28 Con cháu của Y-sa-ca, tùy theo gia phả của họ, được ghi tên theo từng bộ tộc gia đình, tức tất cả nam đinh từ hai mươi tuổi trở lên trong bộ tộc Y-sa-ca thể ra trận,
29 đếm được năm mươi bốn nghìn bốn trăm người.
30 Con cháu của Sa-bu-lôn, tùy theo gia phả của họ, được ghi tên theo từng bộ tộc gia đình, tức tất cả nam đinh từ hai mươi tuổi trở lên trong bộ tộc Sa-bu-lôn thể ra trận,
31 đếm được năm mươi bảy nghìn bốn trăm người.
32 Con cháu Giô-sép, gọi con cháu Ép-ra-im, tùy theo gia phả của họ, được ghi tên theo từng bộ tộc gia đình, tức tất cả nam đinh từ hai mươi tuổi trở lên trong bộ tộc Ép-ra-im thể ra trận,
33 đếm được bốn mươi nghìn năm trăm người.
34 Con cháu Ma-na-se, tùy theo gia phả của họ, được ghi tên theo từng bộ tộc gia đình, tức tất cả nam đinh từ hai mươi tuổi trở lên trong bộ tộc Ma-na-se thể ra trận,
35 đếm được ba mươi hai nghìn hai trăm người.
36 Con cháu Bên-gia-min, tùy theo gia phả của họ, được ghi tên theo từng bộ tộc gia đình, tức tất cả nam đinh từ hai mươi tuổi trở lên trong bộ tộc Bên-gia-min thể ra trận,
37 đếm được ba mươi lăm nghìn bốn trăm người.
38 Con cháu Đan, tùy theo gia phả của họ, được ghi tên theo từng bộ tộc gia đình, tức tất cả nam đinh từ hai mươi tuổi trở lên trong bộ tộc Đan thể ra trận,
39 đếm được sáu mươi hai nghìn bảy trăm người.
40 Con cháu A-se, tùy theo gia phả của họ, được ghi tên theo từng bộ tộc gia đình, tức tất cả nam đinh từ hai mươi tuổi trở lên trong bộ tộc A-se thể ra trận,
41 đếm được bốn mươi mốt nghìn năm trăm người.
42 Con cháu Nép-ta-li, tùy theo gia phả của họ, được ghi tên theo từng bộ tộc gia đình, tức tất cả nam đinh từ hai mươi tuổi trở lên trong bộ tộc Nép-ta-li thể ra trận,
43 đếm được năm mươi ba nghìn bốn trăm người.
44 Đó những người Môi-se, A-rôn mười hai người lãnh đạo Y-sơ-ra-ên kiểm tra; mỗi trưởng bộ tộc kiểm tra cho bộ tộc mình.
45 Như vậy, toàn dân Y-sơ-ra-ên đã được kiểm tra tùy theo gia tộc, từ hai mươi tuổi trở lên, tức mọi người Y-sơ-ra-ên thể ra trận được,
46 tổng số sáu trăm lẻ ba nghìn năm trăm năm mươi người.
47 Nhưng người Lê-vi theo bộ tộc của ông cha mình không được tính chung với những bộ tộc khác.
48 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se rằng:
49 “Con đừng tính bộ tộc Lê-vi cũng đừng kiểm tra dân số chung với dân Y-sơ-ra-ên,
50 nhưng hãy chỉ định người Lê-vi trông coi Đền Tạm Chứng Ước, tất cả đồ đạc mọi vật thuộc về Đền Tạm. Họ sẽ vận chuyển Đền Tạm tất cả đồ đạc trong đó, cũng như trông coi đóng trại chung quanh Đền Tạm.
51 Mỗi khi dời Đền Tạm thì người Lê-vi sẽ tháo dỡ nó, khi cần dựng Đền Tạm thì họ sẽ dựng lên. Những người khác đến gần sẽ bị xử tử.
52 Dân Y-sơ-ra-ên phải đóng trại theo từng đơn vị; mỗi người trong trại riêng của mình phải đóng dưới ngọn cờ mình.
53 Nhưng người Lê-vi sẽ đóng trại chung quanh Đền Tạm Chứng Ước để cơn thịnh nộ không giáng trên hội chúng Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi sẽ coi sóc Đền Tạm Chứng Ước.
54 Dân Y-sơ-ra-ên làm đúng theo mọi điều Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se.”