Bible

Engage

Your Congregation Like Never Before

Try RisenMedia.io Today!

Click Here

Nehemiah 7

:
Vietnamese - VIE2010
1 Sau khi tường thành đã xây xong, tôi tra các cánh cửa lập những người gác cổng, các ca người Lê-vi làm nhiệm vụ.
2 Tôi giao việc cai trị Giê-ru-sa-lem cho em tôi Ha-na-ni cho Ha-na-nia quản đốc kinh thành, ông người trung tín kính sợ Đức Chúa Trời hơn nhiều kẻ khác.
3 Tôi dặn họ rằng: “Đừng mở các cửa Giê-ru-sa-lem trước khi mặt trời lên cao, phải đóng cửa, cài then lại khi lính canh còn đó. Cũng phải chỉ định người dân Giê-ru-sa-lem thay phiên canh gác, người thì đứng vọng canh, người thì đứng đối diện nhà mình.”
4 Thành thì rộng lớn nhưng dân trong thành ít ỏi nhà cửa còn thưa thớt.
5 Đức Chúa Trời thúc giục lòng tôi triệu tập những người quý tộc, các quan chức dân chúng đến ghi tên theo gia phả. Tôi đã tìm được một cuốn gia phả của những người đã hồi hương lần đầu tiên trong đó tôi thấy ghi rằng:
6 Đây những người từ nơi lưu đày hồi hương, tức những người bị vua Nê-bu-cát-nết-sa bắt đi Ba-by-lôn, nay họ trở về Giê-ru-sa-lem Giu-đa, mỗi người về lại thành của mình.
7 Họ trở về cùng với Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, A-xa-ria, Ra-a-mia, Na-ha-ma-ni, Mạc-đô-chê, Binh-san, Mích-bê-rết, Biết-vai, Nê-hum Ba-a-na. Đây số những người nam trong Y-sơ-ra-ên được kiểm tra:
8 Con cháu Pha-rốt hai nghìn một trăm bảy mươi hai người.
9 Con cháu Sê-pha-tia ba trăm bảy mươi hai người.
10 Con cháu A-ra sáu trăm năm mươi hai người.
11 Con cháu Pha-hát Mô-áp, tức con cháu của Giê-sua Giô-áp, hai nghìn tám trăm mười tám người.
12 Con cháu Ê-lam một nghìn hai trăm năm mươi bốn người.
13 Con cháu Xát-tu tám trăm bốn mươi lăm người.
14 Con cháu Xác-cai bảy trăm sáu mươi người.
15 Con cháu Bin-nui sáu trăm bốn mươi tám người.
16 Con cháu Bê-bai sáu trăm hai mươi tám người.
17 Con cháu A-gát hai nghìn ba trăm hai mươi hai người.
18 Con cháu A-đô-ni-cam sáu trăm sáu mươi bảy người.
19 Con cháu Biết-vai hai nghìn không trăm sáu mươi bảy người.
20 Con cháu A-đin sáu trăm năm mươi lăm người.
21 Con cháu A-te thuộc dòng dõi Ê-xê-chia chín mươi tám người.
22 Con cháu Ha-sum ba trăm hai mươi tám người.
23 Con cháu Bết-sai ba trăm hai mươi bốn người.
24 Con cháu Ha-ríp một trăm mười hai người.
25 Con cháu Ga-ba-ôn chín mươi lăm người.
26 Những người quê Bết-lê-hem Nê-tô-pha một trăm tám mươi tám người
27 Những người quê A-na-tốt một trăm hai mươi tám người.
28 Những người quê Bết A-ma-vết bốn mươi hai người.
29 Những người quê Ki-ri-át Giê-a-rim, người Kê-phi-ra, người Bê-ê-rốt, bảy trăm bốn mươi ba người.
30 Những người quê Ra-ma Ghê-ba, sáu trăm hai mươi mốt người.
31 Những người quê Mích-ma một trăm hai mươi hai người.
32 Những người quê Bê-tên A-hi một trăm hai mươi ba người.
33 Những người quê Nê-bô khác năm mươi hai người.
34 Con cháu Ê-lam khác một nghìn hai trăm năm mươi bốn người.
35 Con cháu Ha-rim ba trăm hai mươi người.
36 Con cháu Giê-ri-cô ba trăm bốn mươi lăm người.
37 Con cháu Lót, Ha-đít Ô-nô bảy trăm hai mươi mốt người.
38 Con cháu Sê-na ba nghìn chín trăm ba mươi người.
39 Những thầy tế lễ: Con cháu Giê-đa-gia thuộc dòng dõi Giê-sua chín trăm bảy mươi ba người.
40 Con cháu Y-mê một nghìn không trăm năm mươi hai người.
41 Con cháu Pha-ru-sơ một nghìn hai trăm bốn mươi bảy người.
42 Con cháu Ha-rim một nghìn không trăm mười bảy người.
43 Những người Lê-vi: Con cháu Giê-sua Cát-mi-ên, thuộc dòng dõi Hô-đê-va bảy mươi bốn người.
44 Các ca sĩ: Con cháu A-sáp một trăm bốn mươi tám người.
45 Những người gác cổng: Con cháu Sa-lum, con cháu A-te, con cháu Tanh-môn, con cháu A-cúp, con cháu Ha-ti-ta con cháu Sô-bai, một trăm ba mươi tám người.
46 Những người phục vụ đền thờ: con cháu Xi-ha, con cháu Ha-su-pha, con cháu Ta-ba-ốt,
47 con cháu Kê-rốt, con cháu Si-a, con cháu Pha-đôn,
48 con cháu Lê-ba-na, con cháu Ha-ga-ba, con cháu Sanh-mai,
49 con cháu Ha-nan, con cháu Ghi-đên, con cháu Ga-ha,
50 con cháu Rê-a-gia, con cháu Rê-xin, con cháu Nê-cô-đa,
51 con cháu Ga-xam, con cháu U-xa, con cháu Pha-sê-a
52 con cháu Bê-sai, con cháu Mê-u-nim, con cháu Nê-phu-sê-sim,
53 con cháu Bác-búc, con cháu Ha-cu-pha, con cháu Ha-rua,
54 con cháu Bát-lít, con cháu Mê-hi-đa, con cháu Hạt-sa,
55 con cháu Bạt-cô, con cháu Si-sê-ra, con cháu Tha-mác,
56 con cháu Nê-xia, con cháu Ha-ti-pha.
57 Dòng dõi của các đầy tớ Sa-lô-môn: Con cháu Sô-tai, con cháu Sô-phê-rết, con cháu Phê-ri-đa
58 con cháu Gia-a-la, con cháu Đạt-côn, con cháu Ghi-đên,
59 con cháu Sê-pha-tia, con cháu Hát-tinh, con cháu Phô-kê-rết Hát-xê-ba-im, con cháu A-môn.
60 Tổng số người phục vụ đền thờ dòng dõi của các đầy tớ Sa-lô-môn ba trăm chín mươi hai người.
61 Sau đây những người trở về từ Tên Mê-la, Tên Hạt-sa, Kê-rúp, A-đôn Y-mê, nhưng họ không thể tìm ra tổ tiên hoặc nguồn gốc của họ thuộc về Y-sơ-ra-ên hay không:
62 Con cháu Đê-la-gia, con cháu Tô-bi-gia con cháu Nê-cô-đa sáu trăm bốn mươi hai người.
63 Còn những thầy tế lễ: Con cháu Ha-ba-gia, con cháu Ha-cốt, con cháu Bạt-xi-lai (là người lấy vợ trong số con gái của Bạt-xi-lai, người Ga-la-át nên được gọi bằng tên ấy).
64 Những người nầy tìm kiếm tên mình trong gia phả nhưng không thấy nên bị loại ra khỏi chức tế lễ bị coi ô uế.
65 Quan tổng đốc cấm họ ăn những vật chí thánh cho đến khi một thầy tế lễ dùng U-rim Thu-mim để cầu hỏi Đức Chúa Trời.
66 Cả hội chúng tổng cộng bốn mươi hai nghìn ba trăm sáu mươi người,
67 không kể bảy nghìn ba trăm ba mươi bảy tôi trai tớ gái của họ hai trăm bốn mươi lăm ca sĩ, cả nam lẫn nữ.
68 Họ bảy trăm ba mươi sáu con ngựa, hai trăm bốn mươi lăm con la,
69 bốn trăm ba mươi lăm con lạc đà sáu nghìn bảy trăm hai mươi con lừa.
70 Một vài trưởng tộc đã dâng hiến vào quỹ công trình. Quan tổng đốc dâng cho quỹ công trình khoảng tám rưỡi vàng, năm mươi chậu năm trăm ba mươi bộ áo cho thầy tế lễ.
71 mấy trưởng tộc dâng vào quỹ công trình khoảng một trăm bảy chục vàng một nghìn hai trăm bạc.
72 Dân chúng dâng phần còn lại, được khoảng một trăm bảy chục vàng, khoảng một nghìn một trăm bạc sáu mươi bảy bộ áo thầy tế lễ.
73 Như vậy, những thầy tế lễ, người Lê-vi, những người gác cổng, các ca sĩ, một số người khác những người phục vụ đền thờ cùng cả Y-sơ-ra-ên đều trong thành của mình. Đến tháng bảy thì dân Y-sơ-ra-ên đều trong các thành của mình.