Bible

Engage

Your Congregation Like Never Before

Try RisenMedia.io Today!

Click Here

Revelation 9

:
Vietnamese - VIE1925
1 Vị thiên sứ thứ năm thổi loa, thì tôi thấy một ngôi sao từ trời rơi xuống đất, được ban cho chìa khóa của vực sâu không đáy.
2 Ngôi sao ấy mở vực sâu không đáy ra, một luồng khói dưới vực bay lên, như khói của lửa lớn; một trời không khí đều bị tối tăm bởi luồng khói của vực.
3 Từ luồng khói ấy, những châu chấu bay ra rải trên mặt đất; kẻ ban cho chúng quyền giống như bọ cạp đất vậy.
4 lời truyền cho chúng chớ làm hại loài cỏ đất, thứ xanh cây cối nào, nhưng chỉ làm hại những người không ấn Ðức Chúa Trời trên trán.
5 Lại cho chúng phép, không phải giết, nhưng làm khổ những người đó trong năm tháng, sự làm khổ ấy giống như sự làm khổ khi bọ cạp cắn người ta.
6 Trong những ngày đó, người ta sẽ tìm sự chết, không tìm được; họ sẽ ước ao chết đi sự chết tránh xa.
7 Những châu chấu đó giống như những ngựa sắm sẵn để đem ra chiến trận: trên đầu như mão triều thiên tợ hồ bằng vàng, mặt như mặt người ta;
8 tóc giống tóc đờn bà, răng như răng tử.
9 giáp như giáp bằng sắt; tiếng cánh như tiếng của nhiều xe nhiều ngựa kéo chạy ra nơi chiến trường.
10 Ðuôi nọc, như bọ cạp, ấy bởi trong những đuôi đó chúng quyền hại người ta trong năm tháng.
11 vua đứng đầu, sứ giả của vực sâu, tiếng Hê-bơ-rơ gọi A-ba-đôn, tiếng Gờ-réc A-bô-ly-ôn.
12 Nạn thứ nhứt đã qua; nay còn hai nạn nữa đến sau nó.
13 Vị thiên sứ thứ sáu thổi loa, thì tôi nghe tiếng ra từ bốn góc bàn thờ bằng vàng đặt trước mặt Ðức Chúa Trời.
14 Tiếng ấy nói cùng vị thiên sứ thứ sáu đương cầm loa rằng: Hãy cổi cho bốn vị thiên sứ bị trói trên bờ sông Ơ-phơ-rát.
15 Bốn vị thiên sứ bèn được cổi trói, đã chực sẵn đến giờ, ngày, tháng, năm ấy, hầu cho tiêu diệt một phần ba loài người.
16 Số binh kỵ của đạo quân hai trăm triệu; số đó tôi đã nghe.
17 Kìa trong sự hiện thấy, tôi thấy những ngựa kẻ cỡi ra làm sao: những kẻ ấy đều mặc giáp màu lửa, mầu tía, mầu lưu hoàng; đầu ngự giống tử, miệng phun lửa, khói diêm sanh.
18 Một phần ba loài người bị giết ba tai nạn đó, lửa, khói, diêm sanh ra từ miệng ngựa.
19 quyền phép của những ngựa ấy nơi miệng đuôi nó; những đuôi ấy giống như con rắn, đầu, nhờ đó làm hại người.
20 Còn những người sót lại, chưa bị các tai nạn đó giết đi, vẫn không ăn năn những công việc bởi tay chúng làm cứ thờ lạy ma quỉ cùng thần tượng bằng vàng, bạc, đồng, đã gỗ, những tượng không thấy, không nghe, không đi được.
21 Chúng cũng không ăn năn những tội giết người, thuật, gian dâm, trộm cướp của mình nữa.