Bible

Upgrade

Your Church Presentations in Minutes

Try RisenMedia.io Today!

Click Here

John 4

:
Vietnamese - VIE1925
1 Khi Chúa đã hay rằng người Pha-ri-si nghe đồn Ngài gọi làm phép báp tem được nhiều môn đồ hơn Giăng,
2 (kỳ thiệt không phải chính Ðức Chúa Jêsus làm phép báp tem, nhưng môn đồ Ngài),
3 thì Ngài lìa xứ Giu-đê trở về xứ Ga-li-lê.
4 Vả, Ngài phải đi ngang qua xứ Sa-ma-ri.
5 Vậy Ngài đến một thành thuộc về xứ Sa-ma-ri, gọi Si-kha, gần đồng ruộng Gia-cốp cho Giô-sép con mình.
6 Tại đó cái giếng Gia-cốp. Nhơn đi đàng mỏi mệt, Ðức Chúa Jêsus ngồi gần bên giếng; bấy giờ độ chừng giờ thứ sáu.
7 Một người đờn Sa-ma-ri đến múc nước. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy cho ta uống.
8 môn đồ Ngài đã đi ra phố đặng mua đồ ăn.
9 Người đờn Sa-ma-ri thưa rằng: Uûi kìa! ông người Giu-đa, lại xin uống nước cùng tôi, một người đờn Sa-ma-ri sao? (Số là, dân Giu-đa chẳng hề giao thiệp với dân Sa-ma-ri.)
10 Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: bằng ngươi biết sự ban cho của Ðức Chúa Trời, biết người nói: "Hãy cho ta uống" ai, thì chắc ngươi sẽ xin người cho uống, người sẽ cho ngươi nước sống.
11 Người đờn thưa: Hỡi Chúa, Chúa không múc, giếng thì sâu, vậy bởi đâu nước sống ấy?
12 Tổ phụ chúng tôi Gia-cốp để giếng nầy lại cho chúng tôi, chính người uống giếng nầy, cả đến con cháu cùng các bầy vật người nữa, vậy Chúa lớn hơn Gia-cốp sao?
13 Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Phàm ai uống nước nầy vẫn còn khát mãi;
14 nhưng uống nước ta sẽ cho, thì chẳng hề khát nữa. Nước ta cho sẽ thành một mạch nước trong người đó văng ra cho đến sự sống đời đời.
15 Người đờn thưa: Lạy Chúa, xin cho tôi nước ấy, để cho tôi không khát không đến đây múc nước nữa.
16 Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy đi, gọi chồng ngươi, rồi trở lại đây.
17 Người đờn thưa rằng: Tôi không chồng. Ðức Chúa Jêsus lại phán: Ngươi nói rằng: Tôi không chồng, phải lắm;
18 ngươi đã năm đời chồng, còn người ngươi hiện có, chẳng phải chồng ngươi; điều đó ngươi đã nói thật vậy.
19 Người đờn thưa rằng: Lạy Chúa, tôi nhìn thấy Chúa một đấng tiên tri.
20 Tổ phụ chúng tôi đã thờ lạy trên hòn núi nầy; còn dân Giu-đa lại nói rằng nơi đáng thờ lạy tại thành Giê-ru-sa-lem.
21 Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Hỡi người đờn bà, hãy tin ta, giờ đến, khi các ngươi thờ lạy Cha, chẳng tại trên hòn núi nầy, cũng chẳng tại thành Giê-ru-sa-lem.
22 Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết, sự cứu rỗi bởi người Giu-đa đến.
23 Nhưng giờ hầu đến, đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần lẽ thật thờ phượng Cha: ấy đó những kẻ thờ phượng Cha ưa thích vậy.
24 Ðức Chúa Trời thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần lẽ thật thờ lạy.
25 Người đờn thưa: Tôi biết rằng Ðấng Mê-si (nghĩa Ðấng Christ) phải đến; khi Ngài đã đến, sẽ rao truyền mọi việc cho chúng ta.
26 Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Ta, người đang nói với ngươi đây, chính Ðấng đó.
27 Khi đó, môn đồ tới, đều sững sờ về Ngài nói với một người đờn bà; nhưng chẳng ai hỏi rằng: Thầy hỏi người ấy điều chi? hay là: Sao thầy nói với người?
28 Người đờn bèn bỏ cái nước của mình lại vào thành, nói với người tại đó rằng:
29 Hãy đến xem một người đã bảo tôi mọi điều tôi đã làm; ấy chẳng phải Ðấng Christ sao?
30 Chúng bèn từ trong thành ra đến cùng Ðức Chúa Jêsus.
31 Song le, môn đồ nài nỉ một bên Ngài rằng: Thưa thầy, xin hãy ăn.
32 Ngài đáp rằng: Ta một thứ lương thực để nuôi mình các ngươi không biết.
33 Vậy môn đồ nói với nhau rằng: ai đã đem chi cho thầy ăn chăng?
34 Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Ðồ ăn của ta tức làm theo ý muốn của Ðấng sai ta đến, làm trọn công việc Ngài.
35 Các ngươi chẳng nói rằng còn bốn tháng nữa thì tới mùa gặt sao? Song ta nói với các ngươi: Hãy nhướng mắt lên xem đồng ruộng, đã vàng sẵn cho mùa gặt.
36 Con gặt đã lãnh tiền công mình thâu chứa hoa lợi cho sự sống đời đời, hầu cho người gieo giống con gặt được cùng nhau vui vẻ.
37 đây người ta thể nói rằng: Người nầy thì gieo, người kia thì gặt, rất phải.
38 Ta đã sai các ngươi gặt nơi mình không làm; kẻ khác đã làm, còn các ngươi thì đã vào tiếp lấy công lao của họ.
39 nhiều người Sa-ma-ri thành đó tin Ngài, cứ lời đờn đã làm chứng về Ngài rằng: Ngài đã bảo tôi mọi điều tôi đã làm.
40 Vậy, các người Sa-ma-ri đã đến cùng Ngài, xin Ngài vào trọ nơi mình; Ngài bèn lại đó hai ngày.
41 Khi đã nghe lời Ngài rồi, người tin Ngài càng đông hơn nữa.
42 Họ nói với người đờn rằng: Ấy không còn phải điều ngươi đã nói với chúng ta chúng ta tin đâu; chính chúng ta đã nghe Ngài, biết rằng chính Ngài thật Cứu Chúa của thế gian.
43 Khỏi hai ngày ấy, Ðức Chúa Jêsus từ đó đi qua xứ Ga-li-lê
44 (vì chính Ngài đã phán rằng một người tiên tri chẳng bao giờ được tôn kính trong quê hương mình).
45 Khi đã đến xứ Ga-li-lê, Ngài được dân xứ ấy tiếp rước tử tế, bởi dân đó đã thấy mọi điều Ngài làm tại thành Giê-ru-sa-lem trong ngày lễ; họ cũng đi dự lễ.
46 Vậy, Ngài lại đến thành Ca-na, trong xứ Ga-li-lê, nơi Ngài đã hóa nước thành rượu. Nguyên tại thành Ca-bê-na-um, một quan thị vệ kia, con trai người mắc bịnh.
47 Quan đó nghe Ðức Chúa Jêsus đã từ xứ Giu-đê đến xứ Ga-li-lê, bèn tìm đến xin Ngài xuống đặng chữa cho con mình gần chết.
48 Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Nếu các ngươi không thấy phép lạ điềm lạ, thì các ngươi chẳng tin!
49 Quan thị vệ trả lời rằng: Lạy Chúa, xin Chúa xuống trước khi con tôi chưa chết!
50 Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy đi, con của ngươi sống. Người đó tin lời Ðức Chúa Jêsus đã phán cho mình, bèn đi.
51 Người đang đi dọc đàng, các đầy tớ người đến đón rằng: Con trai chủ sống.
52 Người bèn hỏi họ con trai mình đã thấy khá nhằm giờ nào. Họ trả lời rằng: bữa qua, hồi giờ thứ bảy, cơn rét lui khỏi.
53 Người cha nhận biết rằng ấy chính giờ đó Ðức Chúa Jêsus đã phán cùng mình rằng: Con của ngươi sống; thì người với cả nhà đều tin.
54 Ấy phép lạ thứ hai Ðức Chúa Jêsus đã làm, khi Ngài từ xứ Giu-đê trở về xứ Ga-li-lê.