Bible

Engage

Your Congregation Like Never Before

Try RisenMedia.io Today!

Click Here

Psalms 104

:
Vietnamese - BD2011
1 Hãy ca ngợi CHÚA, hỡi linh hồn ta! Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của con, Ngài thật đại thay! Ngài mặc bằng sự huy hoàng sự uy nghi.
2 Ngài bao phủ mình bằng ánh sáng như chiếc áo choàng; Ngài giăng các tầng trời ra như căng một cái trại.
3 Ngài đặt các đà ngang cho các thiên cung của Ngài trên nước; Ngài dùng mây làm xa giá; Ngài bước đi trên cánh gió;
4 Ngài dùng gió làm các sứ giả Ngài, Lửa hừng làm bầy tôi hầu hạ Ngài.
5 Ngài đặt trái đất trên nền của nó, Để đến đời đời chẳng bị chuyển lay.
6 Ngài bao phủ đất bằng biển sâu như phủ một chiếc áo; Các nguồn nước lại đứng trên các ngọn núi cao.
7 Khi Ngài quở trách, chúng thất kinh chạy trốn; Nghe tiếng sấm sét của Ngài, chúng vụt chạy cho xa.
8 Núi đồi trồi lên, thung lũng sụp xuống, Đúng vào nơi Ngài định cho chúng.
9 Ngài định giới hạn để nước không thể vượt qua, Hầu không được trở lại bao phủ mặt đất nữa.
10 Trong các thung lũng Ngài ban các dòng nước ngọt; Chúng lượn quanh tuôn chảy giữa núi đồi;
11 Chúng cung cấp thức uống cho mọi sinh vật trong đồng; Nhờ chúng những lừa rừng được thỏa mãn cơn khát.
12 Bên cạnh chúng chim trời làm tổ, Cất tiếng hót ca giữa các cành cây.
13 Từ thiên cung Ngài đổ nước xuống tưới các núi rừng; Trái đất được no nhờ bông trái của công việc Ngài.
14 Ngài khiến cỏ xanh mọc lên cho súc vật, rau trái sinh ra để phục vụ loài người; Từ ruộng đất người ta thể đem về thực phẩm,
15 Rồi chế thành rượu, uống cho lòng vui vẻ, Chế thành dầu, xức cho tươi sáng mặt mày, làm cơm bánh, ăn cho chắc dạ vững lòng.
16 Những cây cối của CHÚA đều được nước uống no nê, Kể cả những cây hương Ngài đã trồng Li-băng,
17 Cùng những cây cối nơi các chim trời làm tổ, Cùng những cây bách nơi chim hạc chọn làm nhà.
18 Ngài dựng nên những núi cao nơi các rừng làm chỗ ở; Các gành đá cheo leo nơi các chuột núi nương thân.
19 Ngài dựng nên mặt trăng để ấn định các mùa; Cùng mặt trời tự biết khi nào phải lặn xuống.
20 Ngài dựng nên bóng tối, trở thành ban đêm; Ấy khi các thú rừng đi ra săn mồi.
21 Các tử gầm rống tìm mồi, tìm kiếm thức ăn từ Đức Chúa Trời cung cấp.
22 Đến khi mặt trời mọc lên chúng lại rút về, nằm xuống trong hang của chúng.
23 Người ta lại đi ra làm việc, làm lụng cho đến hoàng hôn.
24 CHÚA ôi, công việc của Ngài thật nhiều thay! Ngài đã dựng nên tất cả bằng sự khôn ngoan của Ngài; Trái đất đầy dẫy muôn vật do Ngài dựng nên.
25 Kìa đại dương sâu rộng mênh mông, Trong đó chứa nhung nhúc biết bao sinh vật; Thật số sinh vật lớn nhỏ.
26 Rồi cũng các ghe thuyền tàu qua lại, con quái vật Ngài đã dựng nên đùa chơi trong đó.
27 Tất cả đều trông chờ nơi Ngài, Để Ngài ban cho chúng vật thực phải thì.
28 Khi Ngài cho ăn, chúng liền tụ lại; Khi Ngài tay ra, chúng được ăn uống no nê.
29 Khi Ngài ẩn mặt, chúng hoảng kinh bối rối; Khi Ngài lấy hơi thở chúng đi, chúng liền chết trở về cát bụi.
30 Khi Ngài ban Thần Khí Ngài ra, chúng được dựng nên, Ngài làm cho mặt đất mới lại.
31 Nguyện vinh hiển của CHÚA còn đến đời đời. Nguyện CHÚA vui thích về các công việc Ngài.
32 Ngài nhìn vào trái đất, run lên lẩy bẩy; Ngài đụng đến núi non, chúng bốc khói mịt mù.
33 Hễ tôi còn sống bao lâu, tôi sẽ ca tụng CHÚA bấy lâu; Hễ tôi còn sống chừng nào, tôi sẽ ca ngợi Đức Chúa Trời tôi chừng nấy.
34 Nguyện những suy nghĩ của tôi được đẹp lòng Ngài; Về phần tôi, tôi sẽ cứ vui mừng trong CHÚA.
35 Nguyện những kẻ tội lỗi bị diệt trừ khỏi mặt đất; Nguyện những kẻ ác không còn nữa. Hãy chúc tụng CHÚA, hỡi linh hồn ta, Hãy ca ngợi CHÚA !