Bible

Elevate

Your Sunday Morning Worship Service

Try RisenMedia.io Today!

Click Here

Deuteronomy 4

:
Vietnamese - BD2011
1 Bây giờ hỡi I-sơ-ra-ên, hãy lắng nghe những luật lệ mạng lịnh tôi sẽ chỉ dạy anh chị em hầu vâng giữ lấy, để anh chị em được sống vào chiếm lấy xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ tiên anh chị em, ban cho anh chị em.
2 Anh chị em chớ thêm điều vào những tôi truyền cho anh chị em cũng không được bớt điều chi, nhưng hãy vâng giữ những điều răn của CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, tôi truyền cho anh chị em.
3 Chính mắt anh chị em đã thấy những CHÚA đã làm đối với Ba-anh Pê-ô, thể nào CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, đã tiêu diệt khỏi anh chị em những kẻ đi theo Ba-anh Pê-ô,
4 trong khi những ai trung thành với CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, thì vẫn còn được sống đến ngày nay.
5 Hãy xem, như CHÚA, Đức Chúa Trời của tôi, đã truyền cho tôi thể nào, bây giờ tôi dạy lại cho anh chị em những luật lệ mạng lịnh đó thể ấy, để anh chị em vâng giữ trong xứ anh chị em sắp sửa vào chiếm lấy.
6 Anh chị em hãy vâng giữ chúng một cách cẩn thận, điều ấy sẽ chứng tỏ sự khôn ngoan khả năng phân biệt của anh chị em trước mặt các dân, những kẻ khi được nghe những luật lệ này sẽ phải buột miệng nói, ‘Quả thật, dân ấy một dân khôn ngoan thông sáng!’
7 dân nào nước nào một vị thần gần gũi với mình như CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta, khi chúng ta kêu cầu Ngài chăng?
8 Hoặc một cường quốc nào những luật lệ mạng lịnh thể hiện công như toàn bộ luật pháp tôi trình ra trước mặt anh chị em ngày nay chăng?
9 Vậy hãy coi chừng cẩn thận giữ lấy mình; suốt đời anh chị em, đừng để những chính mắt anh chị em đã thấy rời khỏi lòng mình. Hãy dạy cho con cái mình cháu chắt mình biết những điều ấy.
10 Hãy nhớ đã lần anh chị em đứng trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, tại Hô-rếp khi CHÚA nói với tôi, ‘Hãy tập họp dân lại cho Ta, để Ta cho chúng nghe những lời Ta, hầu chúng học biết kính sợ Ta trọn những ngày chúng sống trên đất dạy con cháu chúng cũng làm như vậy.’
11 Anh chị em đã đến gần đã đứng tại chân núi, trong khi trên đỉnh lửa phụt lên đến tận trời mây đen phủ giăng mịt.
12 Rồi từ trong ngọn lửa, CHÚA phán với anh chị em. Anh chị em đã nghe tiếng nói nhưng không thấy hình dáng nào, chỉ tiếng nói thôi.
13 Ngài đã phán với anh chị em giao ước của Ngài Ngài đã truyền cho anh chị em phải vâng giữ, đó mười điều răn Ngài đã viết vào hai bảng đá.
14 CHÚA cũng đã truyền cho tôi lúc đó rằng tôi phải dạy anh chị em những luật lệ mạng lịnh, để anh chị em vâng giữ khi vào trong xứ anh chị em sắp đi qua chiếm lấy.
15 Vậy hãy nhớ kỹ rằng khi CHÚA từ trong ngọn lửa phán với anh chị em tại Hô-rếp, anh chị em không thấy hình ảnh nào của Ngài. Thế thì hãy coi chừng cẩn thận giữ lấy mình,
16 hầu anh chị em sẽ không sa đọa, làm cho mình những hình tượng của bất cứ hình dạng người nào, hình dạng của người nam hay người nữ,
17 hoặc hình dạng của bất cứ thú vật nào trên đất, hình dạng của bất cứ loài chim nào bay trên trời,
18 hình dạng của bất cứ loài sát nào trên mặt đất, hình dạng của bất cứ loài nào bơi lội trong nước dưới mặt đất để thờ.
19 Khi anh chị em nhìn lên trời thấy mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, tức mọi thiên thể trên trời, thì chớ để mình bị lôi cuốn bởi những ý nghĩ sai lạc sụp xuống thờ lạy chúng phục vụ chúng, tức những thứ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, đã sắp đặt chúng đâu vào đó trong không gian cho mọi người dưới trời.
20 Nhưng CHÚA đã nhận lấy anh chị em đem anh chị em ra khỏi nung sắt thép, tức ra khỏi Ai-cập, để anh chị em trở thành một dân làm nghiệp riêng của Ngài như hiện nay.
21 anh chị em CHÚA đã giận tôi; Ngài đã thề rằng tôi sẽ không được đi qua Sông Giô-đanh, tôi sẽ không được vào xứ tốt tươi màu mỡ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, sẽ ban cho anh chị em làm sản nghiệp.
22 Nhưng tôi sẽ qua đời trong xứ này, không được đi qua bên kia Sông Giô-đanh; còn anh chị em sẽ đi qua bên đó chiếm lấy xứ sở tốt tươi màu mỡ ấy làm sản nghiệp.
23 Vậy khá cẩn thận chớ quên giao ước CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, đã lập với anh chị em; chớ làm cho anh chị em hình tượng của bất cứ vật nào CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, đã cấm.
24 CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, ngọn lửa hay thiêu đốt, một Vị Thần ghen tương.
25 Khi anh chị em con, cháu, được ổn định trong xứ ấy rồi, nếu anh chị em hành động một cách sa đọa làm cho mình hình tượng của bất cứ vật –làm như thế tức làm điều ác trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, chọc giận Ngài–
26 thì ngày nay tôi gọi trời đất làm chứng để nghịch lại anh chị em rằng anh chị em sẽ sớm bị tiêu diệt hoàn toàn khỏi xứ anh chị em sắp sửa qua Sông Giô-đanh chiếm lấy. Anh chị em sẽ không sống lâu trong xứ ấy, nhưng sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn.
27 CHÚA sẽ phân tán anh chị em ra giữa các dân; chỉ một số ít người của anh chị em sẽ sót lại giữa các dân CHÚA sẽ đưa anh chị em đến sống.
28 đó anh chị em sẽ phụng sự các thần khác do bàn tay loài người làm ra. Đó những thứ bằng gỗ bằng đá, những thứ không thấy, không nghe, không ăn, không ngửi.
29 Từ những nơi đó anh chị em sẽ trở lại tìm kiếm CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, anh chị em sẽ tìm được Ngài nếu anh chị em tìm kiếm Ngài hết lòng hết linh hồn mình.
30 Trong cơn cùng khốn, tức khi tất cả những điều ấy xảy đến cho anh chị em trong tương lai, anh chị em sẽ quay về với CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, nghe theo Ngài.
31 CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, Đức Chúa Trời hay thương xót; Ngài sẽ không bỏ hẳn anh chị em cũng không tuyệt diệt anh chị em; Ngài sẽ không quên giao ước Ngài đã thề với tổ tiên anh chị em.
32 Anh chị em thử hỏi xem, từ những thời xa xưa trước kia, những thời trước anh chị em, kể từ khi Đức Chúa Trời dựng nên loài người trên đất, cho đến bây giờ, hãy hỏi xem từ chân trời này đến chân trời kia đã việc lớn lao đại như thế này, hoặc đã điều tương tự như thế, từng xảy ra hay được nghe nói đến chăng?
33 dân tộc nào đã từng nghe tiếng của Đức Chúa Trời từ trong ngọn lửa phán ra như anh chị em đã nghe, còn sống chăng?
34 Hay vị thần nào đã nỗ lực đi lấy cho mình một quốc gia từ trong một quốc gia khác, bằng cách dùng những cuộc đọ sức, bằng những dấu kỳ phép lạ, bằng chiến trận, bằng tay quyền năng cánh tay vung thẳng ra, bằng những việc kinh hoàng, như CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, đã làm cho anh chị em trước mắt anh chị em khi Ai-cập chăng?
35 Những việc ấy đã được bày tỏ cho anh chị em thấy, để anh chị em nhận biết rằng CHÚA chính Đức Chúa Trời; ngoài Ngài ra không thần nào khác.
36 Từ trời Ngài đã cho anh chị em nghe tiếng Ngài để nghiêm dạy anh chị em; dưới đất Ngài đã cho anh chị em thấy ngọn lửa lớn của Ngài, anh chị em đã nghe được tiếng Ngài từ trong ngọn lửa phán ra.
37 Số Ngài đã thương yêu tổ tiên anh chị em, nên Ngài đã chọn dòng dõi họ. Ngài đã đích thân hiện diện dùng quyền năng lớn lao của Ngài để đem anh chị em ra khỏi Ai-cập,
38 đuổi các dân tộc lớn mạnh hơn anh chị em phải bỏ đi trước mặt anh chị em, rồi đem anh chị em vào ban xứ sở của họ cho anh chị em làm sản nghiệp như ngày nay.
39 Vậy hôm nay anh chị em khá nhận biết ghi tạc vào lòng điều này: CHÚA Đức Chúa Trời trên trời cao kia dưới đất thấp này; không thần nào khác.
40 Hãy vâng giữ những luật lệ điều răn của Ngài tôi truyền cho anh chị em ngày nay, để anh chị em con cháu anh chị em được phước, hầu anh chị em sẽ lâu dài trong xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, ban cho anh chị em vĩnh viễn.”
41 Bấy giờ Môi-se biệt riêng ra ba thành phía đông Sông Giô-đanh,
42 để những kẻ ngộ sát thể chạy đến đó ẩn náu, tức những kẻ lỡ tay làm chết người khác, hai người trước đó không hề thù hiềm với nhau; kẻ ngộ sát thể chạy đến trú ẩn trong các thành ấy được để cho sống.
43 Đó Thành Bê-xê trong đồng hoang miền đồng bằng dành cho chi tộc Ru-bên, Thành Ra-mốt Ghi-lê-át dành cho chi tộc Gát, Thành Gô-lan Ba-san dành cho chi tộc Ma-na-se.
44 Đây những luật pháp Môi-se đã trình ra trước dân I-sơ-ra-ên.
45 Đây những chứng ngôn, những luật lệ, những mạng lịnh Môi-se đã nói với dân I-sơ-ra-ên khi họ ra khỏi Ai-cập,
46 lúc họ bên kia Sông Giô-đanh, trong thung lũng đối ngang Bết Pê-ô, trong lãnh thổ của Vua Si-hôn người A-mô-ri trị tại Hếch-bôn, vị vua Môi-se dân I-sơ-ra-ên đã đánh bại khi họ ra khỏi Ai-cập.
47 Họ chiếm lấy xứ sở của ông xứ sở của Vua Óc Ba-san, hai vua dân A-mô-ri phía đông Sông Giô-đanh:
48 từ A-rô-e, tức bên bờ Suối Ạc-nôn chạy dài đến Núi Si-ri-ôn, tức Núi Hẹt-môn,
49 cùng tất cả miền A-ra-ba phía đông Sông Giô-đanh chạy dài đến Biển A-ra-ba dưới chân Núi Pít-ga.